Tiêu điểm

Gạo Việt xoay chuyển linh hoạt giữa áp lực thị trường quốc tế


Trong bối cảnh thị trường gạo thế giới biến động và các đối tác lớn hướng đến tự chủ lương thực, xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn giữ được vị thế chủ động.

Chuyển hướng thị trường và sản phẩm cao cấp

Mới đây, Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. đã gia hạn lệnh tạm dừng nhập khẩu gạo thường đến hết năm 2025. Trước đó, nước này đã ngưng nhập khẩu trong tháng 9 và 10 nhằm ổn định giá lúa gạo nội địa. Động thái này đồng nghĩa trong năm 2025, thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới, cũng là khách hàng chủ lực của Việt Nam ngừng nhập khẩu liên tiếp 4 tháng.

Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn đứng ở mức cao nhất thế giới. Ảnh minh họa

Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn đứng ở mức cao nhất thế giới. Ảnh minh họa

Không chỉ mang tính tạm thời, Philippines còn thể hiện chiến lược dài hạn trong việc giảm phụ thuộc vào gạo nhập khẩu. Nước này đã phê duyệt gói đầu tư 3,7 tỷ USD để nâng cấp toàn bộ ngành lúa gạo, bao gồm hỗ trợ nông dân, tăng sản lượng và cải thiện hệ thống logistics. Mục tiêu là tự chủ 84% nhu cầu gạo vào cuối năm 2026, nâng lên 90% vào năm 2028. Điều này đồng nghĩa nhu cầu nhập khẩu từ Việt Nam sẽ giảm đáng kể trong những năm tới.

Indonesia, bạn hàng lớn thứ 2 của Việt Nam, cũng đang đi theo hướng tự chủ lương thực. Sản lượng thặng dư dự kiến của nước này lên tới 4 - 5 triệu tấn, trong khi tồn kho đạt mức kỷ lục 4,2 triệu tấn, khiến nhu cầu nhập khẩu gạo giảm mạnh. Ở chiều ngược lại, giá gạo Ấn Độ, quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới, cũng có xu hướng giảm do tồn kho đạt mức kỷ lục 37 triệu tấn trong nửa đầu năm 2025, tạo áp lực hạ giá gạo trên thị trường quốc tế.

Tuy nhiên, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn đứng ở mức cao nhất thế giới. Cập nhật từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo thơm 5% tấm dao động 415 - 430 USD/tấn; gạo 100% tấm ở mức 314 - 317 USD/tấn; gạo Jasmine 478–482 USD/tấn. Trong khi đó, giá gạo cùng loại của Thái Lan, Ấn Độ hay Pakistan đều thấp hơn, phản ánh hiệu quả trong khâu nâng cao chất lượng và thương hiệu của gạo Việt.

Tại thị trường trong nước, giá lúa gạo ổn định. Lúa nguyên liệu OM 18 dao động 8.500 - 8.600 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 dao động 9.500 - 9.700 đồng/kg; lúa tươi OM 5451 đạt 5.300 - 5.500 đồng/kg. Những con số này chứng tỏ Việt Nam kiểm soát tốt cân đối cung - cầu, đồng thời giữ ổn định thị trường nội địa dù phải đối mặt với áp lực từ biến động quốc tế.

Theo ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch VFA, trong thời gian Philippines tạm ngừng nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam chủ động chuyển hướng sang thị trường khác thay vì chờ đợi. Hiện, ngành gạo đã có những thị trường xuất khẩu mới, trong khi nhu cầu nội địa đang cao sau mưa bão ở miền Trung và miền Bắc.

Các doanh nghiệp cũng tập trung khai thác thị trường ngách, sản phẩm cao cấp và chế biến sâu. Thay vì xuất khẩu số lượng lớn cho các nước như Philippines, Indonesia, hiện các doanh nghiệp hướng tới các dòng sản phẩm chuyên biệt như gạo ST25, gạo Japonica, gạo nếp, hay các sản phẩm chế biến từ gạo như bún, bánh, phở khô, giúp gia tăng giá trị hạt gạo Việt.

Còn theo các doanh nghiệp trong ngành, trước đây, gạo Việt chủ yếu xuất khẩu số lượng lớn với biên lợi nhuận thấp, nên chỉ cần thị trường chính "hắt hơi", ngành gạo cũng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, với việc đi song song cả thị trường truyền thống và chuyển hướng vào thị trường giá trị cao, biên lợi nhuận lớn đã giúp gạo Việt giảm rủi ro phụ thuộc và gia tăng tính chủ động và đứng vững trước những biến động từ thị trường lúa gạo toàn cầu.

Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong 10 tháng năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 7,2 triệu tấn gạo, mang về 3,7 tỷ USD, với giá xuất khẩu bình quân đạt 511 USD/tấn. Trong bức tranh xuất khẩu này, các thị trường châu Phi nổi lên như điểm sáng, tiêu biểu là Ghana tăng trưởng 50% và Bờ Biển Ngà tăng 100%, với tổng lượng xuất khẩu đạt khoảng 1,6 triệu tấn.

Chất lượng và thương hiệu, chiếc “chìa khóa vàng” cho gạo Việt

Sự chủ động còn đến từ việc nâng tầm chất lượng và xây dựng thương hiệu. Mới đây, gạo ST25 lần thứ ba được vinh danh “ngon nhất thế giới”, tạo cú hích tinh thần và khẳng định giá trị thương hiệu gạo Việt. Đồng thời, việc triển khai nhãn hiệu “Gạo Việt xanh, phát thải thấp” với hơn 70.000 tấn gạo được cấp chứng nhận, kèm truy xuất nguồn gốc chi tiết từ địa điểm, giống lúa, vụ sản xuất và quy trình kỹ thuật, cho thấy hướng đi bền vững đang trở thành ưu tiên.

Bên cạnh đó, việc áp dụng các mô hình liên kết chuỗi giá trị, sản xuất theo hướng phát thải thấp và an toàn thực phẩm giúp tăng giá trị hạt gạo xuất khẩu. Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, cho hay, ngành lúa gạo Việt Nam đang chuyển từ tập trung số lượng sang chất lượng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, tạo cơ hội xuất khẩu sang các thị trường cao cấp như Nhật Bản, Mỹ, EU.

“Trung An đã xuất khẩu 500 tấn gạo giảm phát thải sang Nhật Bản, minh chứng cho hiệu quả mô hình liên kết và sản xuất xanh”, ông Phạm Thái Bình chia sẻ và cho hay, Đề án “Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến 2030” đang mở ra cơ hội để doanh nghiệp mở rộng vùng nguyên liệu, đầu tư sản xuất bền vững, tăng năng suất, giảm phát thải và nâng cao giá trị xuất khẩu.

Việt Nam còn được hỗ trợ bởi các chính sách mở rộng hợp tác thương mại cấp Chính phủ (G2G), đặc biệt với các nước châu Phi, nơi có nhu cầu cao về gạo. Đồng thời, việc triển khai cơ chế nhãn hiệu gạo xanh, phát triển các sản phẩm chế biến sâu, cùng cơ hội từ các thị trường cao cấp, cho phép doanh nghiệp không chỉ bán gạo thô mà còn nâng giá trị gia tăng.

Ngoài ra, Philippines cũng điều chỉnh thuế nhập khẩu linh hoạt từ ngày 1/1/2026, từ 15 - 35% tùy biến động tỷ giá. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội để Việt Nam tăng cường thương hiệu và khai thác các sản phẩm cao cấp, giảm sự phụ thuộc vào số lượng.

Theo chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy, việc chuyển từ xuất khẩu số lượng lớn sang tập trung giá trị cao không chỉ giúp Việt Nam giảm rủi ro thị trường mà còn nâng tầm gạo Việt trên bản đồ lúa gạo thế giới. Trong dài hạn, chiến lược này sẽ giúp ngành gạo chủ động, linh hoạt và bền vững, ngay cả khi biến động giá và áp lực cạnh tranh tiếp tục gia tăng.

Sự chuyển hướng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và xây dựng thương hiệu gạo bền vững,… giúp Việt Nam không chỉ ứng phó linh hoạt với áp lực giá mà còn khai thác hiệu quả các cơ hội xuất khẩu mới.

Tác giả: Nguyễn Hạnh