Nói về việc phát triển bền vững của ngành hàng lúa gạo Việt, đứng ở góc độ của một doanh nghiệp (DN) hàng đầu về xuất khẩu (XK) gạo chất lượng cao, ông Phạm Thái Bình, Tổng giám đốc CTCP Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, cho rằng một trong những vấn đề cốt lõi là vùng nguyên liệu sản xuất phải gắn với tiêu thụ. Trên thực tế như hiện nay, người sản xuất thì cứ sản xuất, còn người tiêu thụ thì cứ sợ tiêu thụ, không gắn kết được với nhau.
Phải gắn liền sản xuất với tiêu thụ
Như lưu ý của ông Bình, mặc dù là một trong những quốc gia đứng nhất, nhì, ba về XK gạo trên thế giới trong nhiều năm liền nhưng tính ổn định và bền vững của ngành hàng lúa gạo Việt vẫn không có. Chính vì thế, giải pháp tốt nhất hiện nay vẫn là làm sao từ Trung ương đến địa phương phải có giải pháp để vùng nguyên liệu sản xuất gắn liền với tiêu thụ. Muốn làm được điều này thì liên kết giữa nông dân, HTX với DN phải gắn chặt chẽ với nhau.
“Có như vậy chúng ta mới vừa đảm bảo thu nhập cho nông dân và vừa đảm bảo giá trị của quốc gia”, ông Bình nói.
Việc phát triển vùng nguyên liệu bền vững và gắn chặt mối liên kết giữa nông dân, HTX với DN sẽ giúp cho ngành hàng nông sản thực phẩm gặt nhiều “quả ngọt”. |
Cũng nên nhắc thêm, riêng bản thân CTCP Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An đang đi theo con đường liên kết này khá chặt chẽ nên đã gặt được “quả ngọt” trong XK gạo ở phân khúc gạo thơm chất lượng cao và XK các lô gạo “xanh” phát thải thấp. DN này hiện có vùng nguyên liệu hơn 10.000 ha liên kết với nông dân ở An Giang, Cần Thơ để trồng những giống lúa đặc sản, lúa thơm Jasmine, lúa hữu cơ để chế biến XK.
Như chia sẻ của ông Bình, đó là nhờ công ty đi đầu trong hợp tác tăng diện tích trồng lúa chất lượng cao an toàn và đang tiếp tục hướng tới mở diện tích canh tác lúa đạt tiêu chuẩn phát thải thấp.
“Đây là xu hướng mà ngành hàng lúa gạo Việt cần hướng tới khi mà nhu cầu của người tiêu dùng trên thế giới đang rất cần. Chúng ta nên đa dạng nguồn hàng để XK vào những thị trường khó tính”, ông Bình nói.
Không riêng gì ngành hàng lúa gạo, với ngành hàng nông sản thực phẩm Việt nói chung, việc “gieo mầm” vùng nguyên liệu bền vững và căn cơ là rất cần thiết trong lúc này. Có như vậy, không chỉ giúp các DN gặt “quả ngọt” trong tiêu thụ, mà còn mang lại sinh kế, thu nhập cho nông dân tại địa phương và góp phần thúc đẩy chuyển đổi cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn.
Như vào cuối tháng 8/2025, tại Hội nghị Xúc tiến Đầu tư tỉnh Gia Lai 2025, CTCP thực phẩm dinh dưỡng Nutifood và UBND tỉnh Gia Lai đã ký kết Biên bản ghi nhớ (MOU) về hợp tác toàn diện, hướng tới xây dựng Gia Lai thành “thiên đường bò sữa” và trung tâm sản xuất sữa tươi chất lượng cao tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên.
Theo đó, DN thực phẩm này sẽ tiếp tục mở rộng quy mô trang trại bò sữa tại tỉnh Gia Lai từ 12.000 con lên 30.000 con, mở rộng diện tích chuồng trại từ 52 lên 187ha, đồng cỏ từ 569 lên 1.468ha. Ngoài ra, vùng nguyên liệu trồng cỏ và ngô hợp tác cùng nông dân dự kiến cũng sẽ tăng diện tích từ 1.000 ha lên 2.500 ha, qua đó mang lại sinh kế, thu nhập cho người dân tại địa phương, đồng thời góp phần thúc đẩy chuyển đổi vật nuôi, cây trồng tại Gia Lai.
Tính đến thời điểm hiện tại, tổng vốn đầu tư của Nutifood tại Gia Lai đã đạt hơn 4.500 tỷ đồng, bao gồm 3.000 tỷ đồng cho trang trại và 1.500 tỷ đồng cho nhà máy chế biến sữa. Trong giai đoạn mới, công ty còn có kế hoạch sẽ tiếp tục đầu tư thêm 6.000 tỷ đồng để mở rộng quy mô trang trại, nâng cấp nhà máy và dây chuyền sản xuất hiện đại, công suất lớn, đạt chuẩn thế giới.
Ông Lê Nguyên Hòa, Phó chủ tịch HĐQT Nutifood, cho rằng với điều kiện tự nhiên thuận lợi, khí hậu ôn hòa tại Gia Lai, trang trại bò sữa của công ty đã cho nguồn sữa tươi đạt 3,5gram đạm/100ml, chất lượng tương đương với Australia và New Zealand – hai quốc gia hàng đầu thế giới về chăn nuôi và sản xuất sữa.
Hướng đến nhân rộng các vùng nguyên liệu mới
Hoặc như trường hợp CTCP Mía đường Lam Sơn (LSS) - một DN lớn trong sản xuất và kinh doanh đường mía tại Việt Nam, theo dự báo mới đây từ Bộ phận phân tích thuộc Công ty chứng khoán Mirae Asset, xét về triển vọng theo niên vụ 2025-2026 thì biên lợi nhuận ròng của LSS sẽ cải thiện lên 5,2%.
LSS được đánh giá là có nhiều lợi thế khi triển vọng dài hạn của ngành đường được củng cố bởi chính sách pha xăng sinh học E10 dự kiến áp dụng từ năm 2026. Trong đó, Ethanol – thành phần chính trong E10 – được sản xuất chủ yếu từ mật rỉ đường, phụ phẩm trong quá trình chế biến đường.
Và khi nhu cầu xăng E10 tăng mạnh (ước tính cần 1,2–1,5 triệu m³ ethanol/năm), thì nhu cầu đối với nguyên liệu mật rỉ sẽ tăng đáng kể. Điều này không chỉ tạo thêm nguồn thu cho DN đường từ bán mật rỉ, mà còn gián tiếp hỗ trợ giá mía và giá đường hồi phục, nhờ chuỗi cung ứng được kích hoạt mạnh hơn.
Phía LSS được đánh giá là có những nỗ lực trong việc phát triển vùng nguyên liệu mía bền vững. Thời gian qua DN này đã tập trung phát triển vùng nguyên liệu để khôi phục diện tích mía, nhất là khuyến khích các hộ dân, HTX phát triển diện tích trồng mía quy mô lớn. Nhờ đó, như niên vụ 2024 - 2025, diện tích mía nguyên liệu vùng mía Lam Sơn đạt 8.100 ha, năng suất 80 tấn/ha, nhiều diện tích mía thâm canh đạt trên 100 tấn/ha, sản lượng 650.000 tấn.
Đó là chưa kể công ty này còn hợp tác với hai DN Nhật Bản để triển khai dự án giảm phát thải carbon tại vùng nguyên liệu mía Lam Sơn trên diện tích 500 ha. Khi dự án được công nhận và cấp tín chỉ carbon theo tiêu chuẩn quốc tế, người trồng mía và DN sẽ có cơ hội tham gia thị trường carbon tự nguyện. Đây là cơ chế tài chính mới, giúp tạo thêm nguồn thu từ chính hoạt động canh tác nông nghiệp, mở ra hướng phát triển bền vững cho ngành mía đường Việt Nam.
Cũng nên nhắc đến kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Môi trường là đến năm 2030, diện tích vùng nguyên liệu sẽ được mở rộng lên 1.829.161 ha, gấp hơn 10 lần so với giai đoạn thí điểm (2022 - 2025). Trong đó, 100% diện tích sẽ có hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm với DN.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng định hướng nhân rộng các vùng nguyên liệu mới trên toàn quốc, ưu tiên các sản phẩm như lúa gạo, cà phê, trái cây nhiệt đới, gỗ rừng trồng, thủy sản và muối, nhằm khai thác lợi thế từng vùng miền và đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế.
Tin rằng với hướng đi đúng trong việc “gieo mầm” vùng nguyên liệu bền vững, tạo mối liên chặt chẽ giữa nông dân, HTX với DN, sẽ giúp cho ngành hàng nông sản thực phẩm Việt gặt nhiều “quả ngọt” trong thời gian tới.
Thế Vinh