Tiêu điểm

Cảnh báo tín dụng/GDP có thể lên tới 185%


Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam ước đã lên tới 147%, dự kiến sẽ đạt tới 180-185% nếu tín dụng tiếp tục tăng 16-17% trong những năm tới. Việc "xoay trục" điều hành và giảm sự lệ thuộc vào nguồn vốn ngân hàng không còn là lựa chọn, mà đã là yêu cầu bắt buộc.

Theo các chuyên gia, giai đoạn 2026–2030 sẽ là thời kỳ chuyển mình của dòng vốn. Tín dụng ngân hàng sẽ không còn là "nguồn sữa" duy nhất nuôi dưỡng nền kinh tế. Một cấu trúc tài chính cân bằng, nơi thị trường vốn chia sẻ gánh nặng với ngân hàng và đồng vốn được đổ vào các lĩnh vực sáng tạo, chính là chìa khóa để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng tăng trưởng hai con số một cách bền vững.

Tín dụng “xoay trục” sang các động lực mới

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết tính đến cuối tháng 11/2025, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đã vượt mốc 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,56% so với cuối năm trước. Con số này cho thấy dòng vốn vẫn đang được bơm mạnh mẽ vào nền kinh tế, với quy mô gần gấp đôi so với đầu giai đoạn trước.

Tuy nhiên, điểm khác biệt nằm ở sự chuyển dịch cơ cấu. Thay vì dàn trải, dòng vốn đang được nắn vào các lĩnh vực then chốt. Đáng chú ý, tín dụng cho doanh nghiệp công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ duy trì tốc độ tăng trưởng ấn tượng, đạt bình quân từ 17,5% đến gần 20%. Các chương trình đặc thù như gói tín dụng nông, lâm, thủy sản đã được nâng quy mô lên 185.000 tỷ đồng (gấp 4 lần ban đầu) với tỷ lệ giải ngân thực tế đạt tới 94%.

-5268-1766569857.jpg

Theo các chuyên gia, việc "xoay trục" điều hành và giảm sự lệ thuộc vào nguồn vốn ngân hàng không còn là lựa chọn, mà là yêu cầu bắt buộc.

Bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) khẳng định, trong giai đoạn 2026–2030, NHNN sẽ tiếp tục "xoay trục" điều hành theo hướng linh hoạt hơn. Dòng vốn sẽ không chỉ ưu tiên nông nghiệp hay xuất khẩu truyền thống mà tập trung mạnh vào các động lực mới: Khoa học công nghệ, chuyển đổi số, năng lượng và các dự án hạ tầng trọng điểm có tính lan tỏa cao.

Tại Diễn đàn Thị trường tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô diễn ra ngày 24/12, các nhà điều hành chính sách và chuyên gia hàng đầu đã cùng phác thảo một lộ trình mới cho dòng vốn Việt Nam. Trong đó, thông điệp xuyên suốt là: Ngừng chạy theo quy mô, tập trung vào hiệu suất và đánh thức các kênh dẫn vốn ngoài ngân hàng.

Dưới góc nhìn chuyên gia, TS. Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng BIDV, đưa ra những con số đáng suy ngẫm về sự phát triển quá nóng của tín dụng. Dự báo trong kịch bản Việt Nam muốn đạt tăng trưởng GDP 10%/năm giai đoạn 2026-2030, nhu cầu vốn là cực kỳ khổng lồ, ước tính cần huy động khoảng 260 tỷ USD (tương đương 39% GDP).

Ông Lực cảnh báo, nền kinh tế Việt Nam đang dựa quá lớn vào hệ thống ngân hàng khi kênh này chiếm tới hơn 50% tổng cung vốn. Đến cuối năm 2025, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam ước đạt 147%. Nếu tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng 16-17%, đến năm 2030, tỷ lệ này sẽ lên tới 180-185% GDP – thuộc nhóm cao nhất thế giới.

"Tại Mỹ, tỷ lệ tín dụng/GDP là 198% nhưng đó là tính cả các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Nếu chỉ tính riêng khối ngân hàng thương mại, tỷ lệ này của họ chỉ khoảng 80% GDP", ông Lực so sánh để chỉ ra rủi ro đòn bẩy tài chính tại Việt Nam đang dồn quá lớn lên vai hệ thống ngân hàng.

Ngân hàng không "thừa tiền" như lầm tưởng

Một trong những vấn đề gây tranh cãi thời gian qua là hiện tượng người dân vẫn ồ ạt gửi tiền nhưng doanh nghiệp khó tiếp cận vốn. TS. Cấn Văn Lực đã bác bỏ hiểu lầm rằng ngân hàng đang "thừa tiền".

Thực tế, tăng trưởng tín dụng đang chạy nhanh hơn tăng trưởng huy động khoảng 3 điểm phần trăm. Trong khi dư nợ tín dụng đạt trên 17 triệu tỷ đồng thì tổng vốn huy động chỉ đạt gần 15 triệu tỷ đồng. Hệ thống đang thiếu hụt khoảng 2 triệu tỷ đồng so với nhu cầu thực tế. Đây chính là lý do khiến lãi suất huy động phải nhích tăng để hút vốn, dù lãi suất cho vay đang được ghìm giữ để hỗ trợ doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng vốn cũng là một dấu hỏi lớn. Vòng quay tiền tại Việt Nam hiện chỉ ở mức 0,6 - 0,7 lần, cho thấy tiền đang bị "đọng" lại đâu đó trong hệ thống mà chưa luân chuyển mạnh vào sản xuất kinh doanh. Điều này giải thích vì sao lạm phát không bùng phát mạnh nhưng tăng trưởng lại chịu áp lực về vốn.

Đồng quan điểm với các chuyên gia, TS. Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới, cho rằng hiệu suất tín dụng/GDP của Việt Nam đã giảm liên tục trong 40 năm qua. Nguyên nhân là do hiện tượng "rò rỉ" vốn sang các kênh phi sản xuất.

Để đạt mục tiêu tăng trưởng bền vững, các chuyên gia đồng thuận rằng Việt Nam phải thay đổi mô hình phát triển. Theo đó, giải pháp cấp bách là phải vực dậy thị trường trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu để dẫn vốn trung và dài hạn, thay vì bắt ngân hàng "gánh" cả các khoản vay dài hơi.

Đồng thời, đẩy mạnh tài chính xanh, nâng hạng thị trường chứng khoán, xây dựng trung tâm tài chính quốc tế và phát triển thị trường tài sản số. Dòng vốn cần tập trung vào năng lượng tái tạo, thương mại điện tử xuyên biên giới và các hệ sinh thái ươm tạo công nghệ – những lĩnh vực tăng năng suất lao động mà ít gây áp lực lạm phát.

TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh (BCSI) nhấn mạnh, dù tăng trưởng nhanh đến đâu cũng phải dựa trên nền tảng lạm phát thấp và sự lành mạnh của hệ thống tài chính.

Huyền Anh
 

Tác giả: Tín dụng “xoay trục” sang các động lực mới