Ngày 26/6/2025, tại Hà Nội, Bộ Công Thương đã tổ chức Diễn đàn “Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả: Thành quả và mục tiêu trong kỷ nguyên vươn mình”, sự kiện nằm trong khuôn khổ hoạt động của Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030.
Tại diễn đàn, chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong cùng các đại biểu cũng đã nêu các vấn đề cho Bộ Công Thương và Bộ Xây dựng liên quan đến nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và vai trò, trách nhiệm của doanh nghiệp, cơ chế chính sách về tài chính xanh, khu công nghiệp xanh… nhất là trong bối cảnh quy định “tiêu chuẩn xanh” đối với các sản phẩm hàng hóa tại thị trường nước ngoài?
Tái định hình hệ thống quản lý năng lượng theo chuẩn quốc tế
Trả câu hỏi của TS. Nguyễn Minh Phong, ông Đặng Hải Dũng – Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) cho biết: Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang thay đổi sâu sắc, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong 5–10 năm tới, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thương mại và môi trường. Những rào cản phi thuế quan mới, như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của châu Âu sẽ chính thức áp dụng từ năm 2026, và các chính sách thuế carbon của Mỹ là minh chứng rõ ràng cho xu hướng toàn cầu đang siết chặt yêu cầu về phát thải và truy xuất nguồn gốc carbon.
PGS.TS Trần Đình Thiên chủ trì, điều phối phiên thảo luận. Ảnh: Cấn Dũng
Theo ông Dũng, khoảng 80% lượng phát thải của Việt Nam đến từ lĩnh vực năng lượng. Do đó, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả không những là công cụ bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia như mục tiêu ban đầu khi được ban hành năm 2010, mà nay phải đóng vai trò kép: vừa bảo đảm nguồn cung, vừa giúp tuân thủ các quy định quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính, phát triển bền vững và xanh hóa chuỗi cung ứng.
Quá trình sửa đổi luật lần này được xây dựng trên tinh thần đó. Ông Dũng nhấn mạnh, các quốc gia và đối tác thương mại lớn như châu Âu sẽ yêu cầu các sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam phải chứng minh rõ mức tiêu thụ năng lượng và lượng phát thải trong toàn bộ chuỗi sản xuất, từ nguyên liệu đầu vào, quy trình sản xuất đến sản phẩm hoàn chỉnh. Truy xuất phát thải carbon sẽ trở thành yêu cầu bắt buộc.
Vì vậy, quản lý năng lượng trong thời gian tới sẽ phải chuyển từ hình thức khuyến khích sang bắt buộc, đặc biệt là trong giám sát tiêu thụ năng lượng tại các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Điều này đòi hỏi minh bạch hóa dữ liệu, có hệ thống đo lường, thống kê, giám sát và báo cáo xuyên suốt, nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế khắt khe.
Cũng theo ông Dũng, nhiều nhãn hàng quốc tế hiện yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam phải công khai trực tuyến thông tin về mức tiêu thụ năng lượng, phát thải CO₂, thậm chí cập nhật theo thời gian thực. Đây là xu hướng không thể đảo ngược.

Ông Đặng Hải Dũng – Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công. Ảnh: Cấn Dũng
Luật sửa đổi vì thế phải định hình lại hệ thống quản lý năng lượng: từ khâu quy định rõ trách nhiệm người quản lý năng lượng tại nhà máy, đến thống kê, báo cáo dữ liệu, đáp ứng yêu cầu truy xuất khi cơ quan nước ngoài kiểm tra nguồn gốc phát thải.
"Trước đây, doanh nghiệp chỉ cần báo cáo tổng lượng năng lượng tiêu thụ năng lượng mỗi năm, nay phải chi tiết theo từng công đoạn, sản phẩm"- ông Dũng cho hay.
Đổi mới thể chế và tài chính xanh: Mở đường cho doanh nghiệp Việt
Liên quan đến công cụ tài chính xanh, ông Dũng chia sẻ, trong lần sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả lần này, Bộ Công Thương đã đề xuất thành lập Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật vừa được Quốc hội thông qua vào ngày 18/6/2025.
Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả sẽ có sự đóng góp một phần từ ngân sách nhà nước, nhưng hoạt động theo cơ chế xã hội hóa, bảo toàn vốn và vận hành linh hoạt. Quan trọng hơn, quỹ sẽ cung cấp các công cụ hỗ trợ tài chính như bảo lãnh tín dụng, cho vay lãi suất thấp, hoặc trợ cấp chi phí vay vốn đối với các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng.
Ông Dũng cho biết, kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nhiều tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (World Bank), Chính phủ Đan Mạch… sẵn sàng cung cấp các nguồn vốn vay ưu đãi để hỗ trợ cho các dự án tiết kiệm năng lượng tại Việt Nam. Tuy nhiên, để tiếp cận được các nguồn vốn này, Việt Nam cần có cơ chế tài chính trung gian hiệu quả, có thể đảm bảo an toàn dòng vốn và hỗ trợ triển khai đúng mục tiêu.

Toàn cảnh diễn đàn. Ảnh: Cấn Dũng
Do vậy, kỳ vọng đặt vào Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả lần này là rất lớn. Không chỉ tháo gỡ nút thắt tài chính cho các dự án đầu tư quy mô lớn, vốn có thể lên tới hàng chục triệu USD, Quỹ còn mở ra cơ hội để Việt Nam mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng, góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải và phát triển bền vững theo đúng cam kết tại COP26.
Tiết kiệm năng lượng là yêu cầu bắt buộc
Ông Nguyễn Công Thịnh – Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ, Môi trường và Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả không còn là một lựa chọn, mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc mang tính toàn cầu. Những tiêu chuẩn xanh, những ràng buộc liên quan đến phát thải carbon không còn chỉ là định hướng, mà đã được các quốc gia phát triển chuyển hóa thành luật lệ cụ thể, gắn với lợi ích thị trường, cạnh tranh thương mại và sự tồn vong của doanh nghiệp.
Theo ông Thịnh, hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật về môi trường và năng lượng, đặc biệt là tiêu chuẩn khí hậu và tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng, cần được định nghĩa và thể chế hóa một cách rõ ràng, cụ thể hơn nữa.
Không thể chỉ dựa vào ý chí chính trị hay ngân sách Nhà nước, mà cần đặt trong bối cảnh thị trường quốc tế, nơi các chuẩn mực xanh đã trở thành thước đo cho năng lực cạnh tranh. Đây không chỉ là vấn đề quản lý nhà nước, mà là sự thích nghi với “thị trường toàn cầu của loài người”, nơi mà các chỉ số phát thải, năng lượng tiêu thụ, hay truy xuất nguồn gốc carbon đều được theo dõi, đo đếm và kiểm chứng chặt chẽ.

Ông Nguyễn Công Thịnh - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, Môi trường và Vật liệu xây dựng. Ảnh: Cấn Dũng
Ông cũng nhấn mạnh rằng, việc quản lý năng lượng trong thời gian tới phải dựa trên cơ sở bắt buộc, không thể dừng lại ở khuyến khích như trước đây. Các sản phẩm, hàng hóa, nhất là hàng xuất khẩu, sẽ phải chứng minh tính minh bạch trong tiêu thụ năng lượng và phát thải carbon trong suốt chuỗi sản xuất, chứ không chỉ ở giai đoạn hoàn thiện.
Doanh nghiệp sẽ phải đáp ứng yêu cầu về truy xuất phát thải ngay từ khâu nguyên liệu đầu vào, sản xuất, đến tiêu thụ cuối cùng. Đây là những yêu cầu mà hệ thống pháp luật, kỹ thuật, giám sát và báo cáo của Việt Nam cần nhanh chóng đáp ứng.
Từ góc độ xây dựng, ông Thịnh chia sẻ thêm về một số điểm mới trong Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (sửa đổi). Trong đó, nổi bật là việc bổ sung cơ chế phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền địa phương, đặc biệt là UBND cấp tỉnh trong việc ban hành danh sách cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, tổ chức thanh tra, kiểm tra, tiếp nhận báo cáo năng lượng, và cấp chứng chỉ cho tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán, quản lý năng lượng.
Dán nhãn năng lượng công trình xanh tạo nên xu hướng tiêu dùng mới
Một trong những nội dung đáng chú ý là dán nhãn năng lượng cho vật liệu và công trình xây dựng. Bộ Xây dựng đã xây dựng bộ tiêu chuẩn và hoàn toàn sẵn sàng triển khai khi Luật có hiệu lực.
Trong tương lai gần, các dự án bất động sản, đặc biệt là công trình nhà ở để bán hoặc cho thuê sẽ từng bước phải công bố mức tiêu thụ năng lượng, mức phát thải tương ứng. Điều này giúp người dân có thể lựa chọn công trình tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, tạo nên xu hướng tiêu dùng mới.
Ông Thịnh cũng đề cập đến thách thức lớn về cung ứng điện hiện nay. Trong năm 2025, Việt Nam chỉ có hai nguồn điện lớn mới đưa vào vận hành là Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mở rộng và Nhiệt điện Quảng Trạch. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ điện tăng rất nhanh. Điều này càng đòi hỏi các cơ sở sử dụng nhiều năng lượng phải giảm tổng mức tiêu thụ, không còn giới hạn ở các cơ sở trên 1.000 TOE/năm như trước đây, mà cần mở rộng diện áp dụng để siết chặt hiệu quả sử dụng điện trên diện rộng.
Liên quan đến phát triển đô thị, ông Nguyễn Công Thịnh cho biết Bộ Xây dựng đang phối hợp nghiên cứu xây dựng Luật Quản lý và Phát triển đô thị theo hướng xanh, thông minh và bền vững. Trong đó, các yếu tố như cây xanh, mặt nước, chiếu sáng thông minh, giao thông thân thiện môi trường và hạ tầng sử dụng năng lượng hiệu quả sẽ được tích hợp thành tiêu chí đánh giá.
“Một số địa phương đã triển khai trung tâm điều hành đô thị thông minh, cho phép theo dõi, giám sát và tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng đô thị theo thời gian thực”- ông Thịnh nhấn mạnh.

TS Nguyễn Như Phong nêu câu hỏi tại diễn đàn. Ảnh: Cấn Dũng
Ông dẫn chứng, trong giai đoạn 2011–2015, việc nâng cao chỉ số hiệu suất năng lượng (CSPF) cho máy điều hòa đã giúp tiết kiệm được tới 270 triệu kWh, tương đương hơn một nửa tổng sản lượng của Nhà máy Thủy điện Thác Bà. Điều này cho thấy tiềm năng của các giải pháp tiết kiệm năng lượng, không chỉ hiệu quả, mà còn khả thi với chi phí thấp, đặc biệt trong điều kiện ngân sách đầu tư hạn chế và tiến độ các dự án nguồn điện không thể rút ngắn hơn nữa.
Đồng thời, ông nhấn mạnh vai trò then chốt của các biện pháp quản lý, quy chuẩn kỹ thuật và tuyên truyền thay đổi hành vi. Những yêu cầu mới về kiểm toán năng lượng, giám sát tiêu thụ, công khai dữ liệu, hay đánh giá xếp hạng công trình… cần được triển khai đồng bộ, tiến tới bắt buộc trong từng nhóm đối tượng.
"Chỉ khi đó, việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả mới thực sự trở thành nền tảng phát triển xanh và cạnh tranh bền vững trong tương lai"- ông Thịnh khẳng định.
Với vai trò chủ trì phiên thảo luận tại diễn đàn, PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng, các giải pháp được thảo luận tại Diễn đàn đã đề cập khá cụ thể tới nhiều khía cạnh của việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Tuy nhiên, xét trên tầm chiến lược dài hạn, vẫn còn rất nhiều vấn đề lớn cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang đứng trước một giai đoạn phát triển mới với cấu trúc phát triển hoàn toàn khác.
Ông nhấn mạnh, chúng ta đang bước vào một “thời đại năng lượng mới”, với yêu cầu, đối tượng sử dụng và cách thức vận hành năng lượng rất khác so với trước đây. Nhu cầu năng lượng sẽ tăng đột biến trong thời gian tới, không chỉ phục vụ cho tăng trưởng kinh tế thông thường, mà còn để đáp ứng các ngành công nghệ cao như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, đô thị thông minh… vốn đòi hỏi tiêu chuẩn cực kỳ nghiêm ngặt về hiệu suất và phát thải.
Do đó, tư duy về năng lượng cũng phải thay đổi căn bản. Từ chỗ coi năng lượng là yếu tố kỹ thuật thuần túy, chúng ta phải nhìn nhận nó như một yếu tố sống còn, gắn với chủ quyền quốc gia, an ninh phát triển, và khả năng hội nhập quốc tế. Điều này đòi hỏi một cách tiếp cận mới trong hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện.
Theo ông Thiên, Luật sửa đổi lần này đã thể hiện được phần nào tinh thần đổi mới đó. Một điểm rất đáng ghi nhận là tính bắt buộc đã được nhấn mạnh rõ ràng hơn, không còn là khuyến khích, tự nguyện hay vận động nữa. "Trong điều kiện hiện nay, chỉ khi sử dụng công cụ pháp lý với mức độ ràng buộc đủ mạnh, mới có thể tạo ra chuyển biến thực chất trong hành vi sử dụng năng lượng của các doanh nghiệp và cộng đồng"- PGS.TS Trần Đình Thiên nhấn mạnh.
Ông cho rằng, lâu nay nhiều quy định trong lĩnh vực năng lượng tiết kiệm và hiệu quả chỉ dừng lại ở mức khuyến khích, dẫn đến hiệu quả thực thi chưa cao. Sự chuyển đổi từ "khuyến khích" sang "bắt buộc" chính là bước tiến quan trọng để Luật thực sự phát huy hiệu lực.
Tuy nhiên, để Luật đi vào cuộc sống, cần thêm nhiều điều kiện khác: cơ chế thực thi đủ mạnh, phân công trách nhiệm rõ ràng, nâng cao vai trò giám sát từ địa phương đến trung ương, và nhất là tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp, chủ thể chính trong quá trình tiêu thụ và tiết kiệm năng lượng.
Ông cũng lưu ý rằng, việc sửa luật lần này được đặt trong một tầm nhìn cấu trúc mới về phát triển quốc gia. Nghĩa là không chỉ phục vụ nhu cầu nội tại, mà còn để Việt Nam có thể tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ cao đòi hỏi tiêu chuẩn môi trường, năng lượng rất nghiêm ngặt. Nếu không sớm thay đổi tư duy, chúng ta sẽ bị loại khỏi sân chơi toàn cầu, nơi đang ngày càng đặt nặng yêu cầu phát triển xanh và phát thải thấp.