Sáng 4/12, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Họp báo thường kỳ tháng 11 năm 2025. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến chủ trì họp báo.
Kim ngạch 11 tháng đạt 64 tỷ USD, nông, lâm, thủy sản đều tăng trưởng
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 11/2025 ước đạt 5,8 tỷ USD, giảm 3,7% so với tháng trước nhưng tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 11 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 64,01 tỷ USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, giá trị xuất khẩu nông sản đạt 34,24 tỷ USD (tăng 15%), sản phẩm chăn nuôi 567,4 triệu USD (tăng 16,8%), thủy sản 10,38 tỷ USD (tăng 13,2%), lâm sản 16,61 tỷ USD (tăng 5,9%), đầu vào sản xuất 2,2 tỷ USD (tăng 29,9%) và muối 11 triệu USD (tăng 93,1%).

Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Họp báo thường kỳ tháng 11 năm 2025. Ảnh: N.H
Xét theo khu vực, châu Á vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm 45,1% tổng kim ngạch, tiếp theo là châu Mỹ (22,8%) và châu Âu (13,4%). So với cùng kỳ, xuất khẩu sang châu Á tăng 5,6%, châu Mỹ 8%, châu Âu 34,8%, châu Phi 77,3% và châu Đại Dương 7,7%. Chi tiết các thị trường lớn, Trung Quốc chiếm 22%, Mỹ 20,5% và Nhật Bản 7%. Giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 14,8%, Hoa Kỳ tăng 6,1% và Nhật Bản tăng 20,7% so với cùng kỳ.
Trong các mặt hàng nông sản chủ lực, cà phê tiếp tục bứt phá. Tháng 11/2025, khối lượng xuất khẩu cà phê ước đạt 80 nghìn tấn, trị giá 463,3 triệu USD, đưa tổng cộng 11 tháng lên 1,4 triệu tấn và 7,88 tỷ USD, tăng 14,1% về khối lượng và 59,7% về giá trị so với cùng kỳ. Giá xuất khẩu bình quân đạt 5.667,6 USD/tấn, tăng 39,9%. Đức, Italia và Tây Ban Nha là ba thị trường tiêu thụ lớn, chiếm 13,3%, 7,8% và 7,4%, trong khi Mêhicô có mức tăng mạnh nhất với 26,1 lần.
Ngược lại, xuất khẩu gạo 11 tháng đạt 7,5 triệu tấn, trị giá 3,83 tỷ USD, giảm 11,5% về khối lượng và 27,7% về giá trị. Giá xuất khẩu bình quân giảm còn 512,1 USD/tấn. Philippin là thị trường lớn nhất với 39,8% thị phần, tiếp theo là Gana (12,8%) và Bờ Biển Ngà (11,5%). Giá trị xuất khẩu gạo sang Philippin giảm 34,9% so với cùng kỳ, trong khi sang Gana tăng 29,8% và Bờ Biển Ngà tăng 79,8%.
Mặt hàng rau quả tháng 11 ước đạt 850 triệu USD, đưa tổng giá trị 11 tháng lên 7,91 tỷ USD, tăng 19,5%. Trung Quốc vẫn là thị trường chủ lực, chiếm 64,1% tổng giá trị, tiếp theo là Hoa Kỳ 6,4% và Hàn Quốc 3,7%. Giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 10,4%, sang Hoa Kỳ tăng 58,3%. Trong khi đó, giá trị xuất khẩu sang Malaysia tăng mạnh 77,5%, nhưng sang Thái Lan giảm 56,6%.
Hạt điều và hồ tiêu cũng ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng. Xuất khẩu hạt điều 11 tháng đạt 698,1 nghìn tấn, trị giá 4,76 tỷ USD, tăng 4% về khối lượng và 19,5% về giá trị. Xuất khẩu hồ tiêu đạt 222,2 nghìn tấn, trị giá 1,5 tỷ USD, giảm 5,5% về khối lượng nhưng tăng 23,3% về giá trị. Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hà Lan là ba thị trường tiêu thụ chính, với các mức tăng giá trị xuất khẩu ấn tượng, đặc biệt tại thị trường Litva (+55,3%).
Thủy sản tiếp tục là nhóm xuất khẩu chủ lực với giá trị ước đạt 10,38 tỷ USD, tăng 13,2%. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản chiếm lần lượt 20,2%, 17,6% và 15%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, Brazil tăng mạnh nhất 37,4%, trong khi Nga giảm 3,6%.
Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 11 tháng đạt 15,54 tỷ USD, tăng 5,6%. Hoa Kỳ chiếm 55,6% thị phần, Nhật Bản 12,6%, Trung Quốc 11,5%. Giá trị xuất khẩu sang Mỹ tăng 6,2%, Nhật Bản tăng 24,5%, Trung Quốc giảm 6,6%.
Triển khai đồng bộ giải pháp tăng tốc xuất khẩu và nâng cao chất lượng
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến khẳng định, ngành đã thực hiện đồng bộ các nghị quyết, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển; kiên định mục tiêu tăng trưởng 4% và phấn đấu kim ngạch xuất khẩu đạt 65-70 tỷ USD năm 2025. Bộ tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, rà soát văn bản pháp luật, ưu tiên nguồn lực thực hiện các chương trình hành động, đồng thời triển khai cải cách hành chính, chuyển đổi số, đơn giản hóa thủ tục trong lĩnh vực nông nghiệp, môi trường, đất đai và khoáng sản.
Song song, Bộ đẩy mạnh cơ cấu lại ngành gắn với nông nghiệp sinh thái, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và hiệu quả sản xuất – kinh doanh. Các hội nghị, đoàn công tác hỗ trợ xuất khẩu, đàm phán thương mại quốc tế, kiểm tra IUU và phòng cháy chữa cháy rừng được triển khai đồng bộ.
Các giải pháp về chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, thúc đẩy thị trường trong nước và xuất khẩu, đặc biệt thích ứng với thuế quan đối ứng từ Hoa Kỳ, cũng được triển khai. Đồng thời, tăng cường quản lý tài nguyên, phòng chống thiên tai, khai thác hiệu quả đất đai, nước, tạo không gian cho sản xuất hàng hóa lớn và đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư công trọng điểm.
Cùng với đó, thông tin, truyền thông về nông nghiệp và môi trường được đẩy mạnh, lan tỏa mô hình sản xuất, kinh doanh hiệu quả, đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, khoa học, giúp doanh nghiệp và người dân nắm bắt thị trường, bảo đảm tăng trưởng xuất khẩu bền vững.
Như vậy, với các giải pháp đồng bộ về quản lý, kỹ thuật, thị trường và chính sách, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản Việt Nam đang tăng tốc mạnh mẽ, tiến gần mục tiêu 65-70 tỷ USD, củng cố vị thế quốc gia xuất khẩu hàng hóa nông nghiệp lớn trên thế giới.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh:
Trong bối cảnh nhiều khó khăn, ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn duy trì ổn định sản xuất và tiến gần mục tiêu xuất khẩu 65 - 70 tỷ USD năm 2025. Đáng chú ý, các thị trường Mỹ và Trung Quốc có sự chuyển biến tích cực: Trung Quốc chiếm trên 22% thị phần, Mỹ còn 20,5%, trong khi châu Âu tiếp tục tăng trưởng mạnh, phản ánh sự dịch chuyển tích cực về thị trường và chất lượng xuất khẩu.
Nếu duy trì đà tăng trưởng khoảng 6 tỷ USD trong tháng 12, ngành nông nghiệp có thể đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu xấp xỉ 70 tỷ USD năm 2025. Mặc dù còn nhiều thách thức từ xung đột thương mại và biến động quốc tế, ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn đạt được kết quả tích cực, tạo đà phát triển cho giai đoạn 2026 - 2030.

