Số liệu thống kê từ Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia cho thấy, phụ tải toàn hệ thống điện ngày 6/7 đạt 875,4 triệu kWh tăng 10,5 triệu kWh so với ngày 5/7 và tăng 43,6 triệu kWh so với ngày 3/7. Trong đó miền Bắc nhu cầu điện ước khoảng 441,9 triệu kWh, tăng khoảng 12,5 triệu kWh so với ngày 5/7, miền Trung khoảng 80,2 triệu kWh, miền Nam khoảng 352,8 triệu kWh.
So với ngày 5/7 nhu cầu sử dụng điện của khu vực miền Trung và miền Nam không có quá nhiều biến động và chênh lệch so với ngày 5/7 tuy nhiên miền Bắc do nắng nóng gay gắt, nhu cầu điện tiếp tục tăng cao trong tuần vừa qua.
Công suất đỉnh hệ thống điện (Pmax) vào lúc 14h00 đạt 43.750,4 MW, tăng 29,2 MW so với ngày 5/7. Tuy nhiên công suất đỉnh của các miền Bắc - Trung - Nam xảy ra ở các thời điểm khác nhau. Cụ thể, công suất đỉnh ở miền Nam đạt 17.901,3 MW vào lúc 14h00. Trong khi đó công suất đỉnh ở miền Bắc đạt 21.535,7 MW vào lúc 13h30, ở miền Trung đạt 4.332,2MW vào lúc 13h30.
Cơ cấu huy động nguồn điện
Trong ngày 6/7/2023, tổng sản lượng huy động từ thuỷ điện đạt khoảng 266,3 triệu kWh, tăng 4,1 triệu kWh so với ngày 5/7 (miền Bắc là 153,3 triệu kWh, tăng 6 triệu kWh so với ngày 5/7); nhiệt điện than huy động 422,6 triệu kWh (miền Bắc đạt 258,6 triệu kWh); tuabin khí huy động 79,6 triệu MW; điện năng lượng tái tạo đạt 59,9 triệu kWh, trong đó điện gió là 7,8 triệu kWh, công suất cao nhất lúc 0h30 đạt 580,5 MW, giảm 167,3 MW so với ngày 5/7, điện mặt trời Farm huy động 52,1 triệu kWh, công suất cao nhất lúc 12h00 đạt 6.784,4MW. Nguồn điện dầu không phải huy động.
Sản lượng điện gió ngày 6/7 sụt giảm mạnh, nắng nóng nên nhu cầu điện miền Bắc tiếp tục tăng |
Nguồn nhiên liệu than cho sản xuất đủ. Các sự cố ngắn hạn của một số tổ máy đã hòa lưới trở lại gồm: Tổ máy S1 của Nhiệt điện Thái Bình 2, Lò 2A Tổ máy S2 của Nhiệt điện Mông Dương 1. Trong khi Lò 2B của Tổ máy S2 Nhiệt điện Mông Dương 1 tạm dừng hoạt động do bục ống sinh hơi, tổ máy S3 của Nhiệt điện Hải Phòng ngừng hoạt động do sự cố.
Tình hình mực nước tại các hồ thủy điện lớn như sau (mực nước hồ/lưu lượng nước về hồ): Hồ thủy điện Lai châu 288/715m; hồ Thủy điện Sơn La là 190,3/1.907m; hồ thủy điện Hòa Bình là 98,2/235m; hồ thủy điện Tuyên Quang là 103,3/555,5m; hồ thủy điện Bản Chát là 448,8/212,7m; hồ thủy điện Ialy là 498,4/124m; hồ thủy điện Trị An là 54,4/693m.
Tại Công văn số 3736/BCT-ĐTĐL ngày 15/6/2023 Bộ Công Thương đã yêu cầu các nhà máy nhiệt điện tập trung nhân lực, vật tư và các điều kiện cần thiết khắc phục ngay các sự cố vừa phát sinh, có tính chất ngắn hạn; khẩn trương xử lý, khắc phục các tổ máy phát điện đang bị sự cố dài ngày; đồng thời thực hiện duy tu bảo dưỡng các nhà máy điện để đảm bảo vận hành an toàn và nâng cao độ khả dụng các tổ máy trong thời gian còn lại của năm 2023. Đồng thời từ ngày 14/6/2023, Bộ Công Thương đã thường xuyên tổ chức các đoàn công tác làm việc trực tiếp tại một số nhà máy nhiệt điện ở miền Bắc để đôn đốc, giám sát việc thực hiện các nội dung nêu trên.
Bộ Công Thương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị liên quan tăng cường các nguồn điện, vận hành linh hoạt hồ chứa trong bối cảnh các hồ thủy điện gặp khó khăn; đôn đốc các nhà máy nhiệt điện tập trung ưu tiên xử lý sự cố các tổ máy; đảm bảo cung ứng than, khí cho phát điện; tích cực bổ sung các nguồn điện năng lượng tái tạo cho hệ thống; tăng cường vận hành an toàn hệ thống truyền tải Trung - Bắc; đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tiết kiệm điện...
Thu Hường