Bổ sung đồng bộ khung pháp lý, tiếp cận chuẩn mực quốc tế
Chiều 18/6, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Kết quả hiển thị trên bảng điện tử cho thấy có 420 đại biểu tham gia (chiếm 87,87%), trong đó 408 đại biểu tán thành (chiếm 85,36%), chỉ có 1 đại biểu không tán thành và 11 đại biểu không biểu quyết.
Quốc hội Biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Ảnh: VPQH
Trước khi Quốc hội tiến hành biểu quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy đã trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật. Theo đó, dự thảo đã thể chế hóa đầy đủ các chủ trương lớn của Đảng, tiếp thu nghiêm túc ý kiến đại biểu Quốc hội, các cơ quan hữu quan, kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Dự thảo gồm 3 điều, 27 khoản; sửa đổi 29 điều, bổ sung 14 điều mới, bỏ 34 điều và 3 khoản thuộc 2 điều.
Một trong những nội dung trọng tâm được chỉnh lý là phân loại và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo mức độ rủi ro. Theo khoản 1, 2, 4 và 5 Điều 5 được sửa đổi, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa quy định cụ thể việc chuyển từ quản lý theo nguy cơ mất an toàn sang quản lý dựa trên đánh giá mức độ rủi ro. Các nguyên tắc quản lý được bổ sung, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết để bảo đảm linh hoạt, phù hợp thông lệ quốc tế mà không cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh.
Liên quan trách nhiệm quản lý nhà nước, khoản 3 Điều 6a quy định rõ Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Thủ tướng trong việc thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Trách nhiệm các bộ ngành còn lại được giao cho Chính phủ quy định chi tiết để bảo đảm nguyên tắc “một việc một cơ quan chủ trì chịu trách nhiệm toàn diện”. Riêng với các mặt hàng thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, cơ yếu và bí mật nhà nước, Quốc hội thống nhất giữ nguyên quy định trong dự thảo để đảm bảo đặc thù.
Bổ sung khung pháp lý xây dựng hạ tầng chất lượng quốc gia
Tại khoản 2, 3, 4, 5 Điều 6b, Luật đã chỉnh lý toàn diện nội dung về “hạ tầng chất lượng quốc gia – NQI”, coi đây là trụ cột kỹ thuật hỗ trợ phát triển kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Hạ tầng chất lượng quốc gia được hiểu là hệ thống cơ chế pháp lý và kỹ thuật để triển khai hoạt động tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp (bao gồm cả công nhận), kiểm tra và xây dựng chính sách ở từng quốc gia nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong nước, đồng thời đẩy mạnh sự thừa nhận của quốc tế đối với hệ thống chất lượng của Việt Nam.
Ảnh: VPQH
Luật đã quy định mang tính nguyên tắc về chính sách, nhiệm vụ trọng tâm và nguồn lực đầu tư để xây dựng NQI. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo về định hướng chính sách và đầu tư hạ tầng kỹ thuật; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước và vai trò, sự tham gia của doanh nghiệp cùng các thành phần kinh tế khác trong hệ sinh thái chất lượng.
Đáng chú ý, Luật cũng bảo đảm tính thống nhất với dự thảo Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật đang được Quốc hội xem xét, thông qua tại cùng kỳ họp này. Do đó, toàn bộ nội dung về NQI được quy định tập trung trong Luật sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa để thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện.
Ngoài ra, Luật bổ sung các quy định về ứng dụng công nghệ trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa tại các điều 6d và 6đ, bao gồm xây dựng và phát triển dữ liệu phục vụ chuyển đổi số, xác định các nội dung ưu tiên trong ứng dụng khoa học công nghệ và giao Chính phủ quy định chi tiết theo đúng chủ trương phân cấp, phân quyền.
Về hiệu lực thi hành, Quốc hội thống nhất áp dụng từ ngày 01/01/2026 và thể hiện như tại Điều 71. Đồng thời, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa cũng bổ sung Điều 73 quy định cụ thể điều khoản chuyển tiếp, tạo hành lang pháp lý rõ ràng và ổn định cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp khi áp dụng quy định mới.